Hàng hóa thế giới phiên đóng cửa ngày 2/2 (rạng sáng 3/2 giờ VN) giảm với dầu thô Mỹ giảm phiên thứ 5 liên tiếp, và đồng cùng một số nông sản cũng giảm, bởi các nhà đầu tư vẫn thận trọng trước báo cáo về việc làm tháng 1 của Mỹ.
Đồng USD hồi phục sau khi giảm phiên trước đó. Đồng bạc xanh vững giá gây hoạt động bán dầu tho mạnh mẽ, và khiến nhiều nhà đầu tư cũng bán mạnh lúa mì ra.
Vàng là một trong số ít tăng giá trong phiên vừa qua, là phiên thứ 3 liên tiếp tăng, nhờ hoạt động mua đầu cơ mạnh mẽ. Vàng đã tăng gần 1% lên khoảng 1.758 USD/ounce. Tính trong vòng một tuần qua, vàng đã tăng tổng cộng gần 2%.
Chỉ số 19 nguyên liệu Thomson-Reuters Jefferies CRB giảm 0,2%, là phiên thứ 4 liên tiếp giảm, bởi các nhà đầu tư vẫn giữ thái độ chờ đợi xem báo cáo về thị trường việc làm của Mỹ sẽ ra sao.
Những số liệu từ Mỹ gần đây cho thấy nền kinh tế nước này đang tăng trưởng chậm nhưng vững vàng, và dự kiến tình hình việc làm tháng 1 cũng được cải thiện.
Dầu thô Mỹ lúc rạng sáng nay giảm 1,25 USD hay 1% xuống 96,36 USD/thùng. Tính từ đầu tuần, dầu thô đã giảm gần 3%, sau khi báo cáo từ Mỹ cho thấy nguồn cung năng lượng ở đó bất ngờ tăng.
Dự trữ dầu thô Mỹ đã tăng mạnh trong 2 tuần liên tiếp, với mức tăng mạnh nhất trong tuần tới 27/1 là tăng hơn 4 triệu thùng, do hoạt động lọc dầu chậm lại và nhu cầu mua xăng cũng như dầu sưởi thấp.
Trong khi giá dầu thô Mỹ giảm thì dầu Brent tại London tăng nửa phần trăm lên 112,07 USD/thùng, đưa khoảng cách giá giữa 2 loại dầu lên mức cao nhất 3 tháng là khoảng 16 USD.
Sở dĩ giá dầu Brent tăng là bởi thời tiết lạnh giá ở châu Âu và lo ngại về tình hình địa chính trị căng thẳng, nhất là việc phương Tây trừng phạt nước thành viên OPEC là Iran về chương trình hạt nhân của Tehran.
Đồng giảm hơn 1% lúc rạng sáng nay, là phiên thứ 4 giảm giá trong vòng 5 phiên giao dịch gần đây, vì thị trường tiếp tục điều chỉnh sau khi giá tăng vào tháng 1 trong bối cảnh vấn đề nợ của Hy Lạp chưa được giải quyết và có nhiều dấu hiệu cho thấy nhu cầu từ Trung Quốc vẫn thấp.
Đồng kỳ hạn tại London giảm 95 USD hay 1,1% xuống 8.345 USD/tấn. Giá đồng đã giảm 4% từ mức cao kỷ lục 4 tháng là 8.679,50 USD/tấn đạt được vào tuần trước.
Taị New York, đồng kỳ hạn tháng 3 giảm 6,10 US cent hay 1,6% xuống 3,7810 USD/lb.
Lúa mì kỳ hạn trên thị trường Mỹ giảm gần 2% do thời tiết ở vành đai trồng lúa mì của châu Âu ấm lên sau đợt giá lạnh hơn thông lệ.
Lúa mì kỳ hạn tại Chicago đã giảm 11-1/2 cents xuống 6,62-3/4 USD/bushel. Phiên giao dịch trước giá đã vọt lên mức cao nhất 4-1/2 tháng là 6,83 USD.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/-(%)
|
+/-(so với đầu năm)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
96,60
|
-1,25
|
-1,3%
|
-2,3%
|
Dầu thô Brent
|
USD/thùng
|
112,56
|
1,00
|
0,9%
|
4,8%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/gallon
|
2,554
|
0,172
|
7,2%
|
-14,6%
|
Vàng giao ngay
|
USD/ounce
|
1756,80
|
9,70
|
0,6%
|
12,1%
|
Vàng kỳ hạn
|
USD/ounce
|
1757,84
|
-1,55
|
-0,1%
|
12,4%
|
Đồng Mỹ
|
US cent/lb
|
378,10
|
-6,10
|
-1,6%
|
10,0%
|
Dollar
|
|
78,972
|
0,050
|
0,1%
|
-1,5%
|
CRB
|
|
310,900
|
-0,630
|
-0,2%
|
1,8%
|
Ngô Mỹ
|
US cent/bushel
|
643,00
|
1,00
|
0,2%
|
-0,5%
|
Đậu tương Mỹ
|
US cent/bushel
|
1217,00
|
1,75
|
0,1%
|
1,5%
|
Lúa mì Mỹ
|
US cent/bushel
|
662,75
|
-11,50
|
-1,7%
|
1,5%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
215,60
|
1,50
|
0,7%
|
-5,5%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2225,00
|
0,00
|
0,0%
|
5,5%
|
Đường Mỹ
|
US cent/lb
|
23,48
|
-0,11
|
-0,5%
|
1,1%
|
Bạc Mỹ
|
USD/ounce
|
34,175
|
0,368
|
1,1%
|
22,4%
|
Bạch kim Mỹ
|
USD/ounce
|
1629,90
|
6,70
|
0,4%
|
16,0%
|
Palladium Mỹ
|
USD/ounce
|
707,65
|
10,95
|
1,6%
|
7,8%
|
Vàng: giá vững và đang tiến tới tuần thứ 5 liên tiếp tăng. Vàng giao ngay vững ở 1.758,14 USD, tăng 1% so với một tùân trước. Vàng kỳ hạn ở mức 1.761,60 USD, tăng 1,5% so với một tuần trước.
Dầu
Dầu thô Mỹ hồi phục lên trên 97 USD trước số liệu việc làm khả quan phát đi từ Mỹ và thông tin Trung Quốc đang xem xét tham gia vào quỹ giải cứu nhằm giải quyết khủng hoảng nợ châu Âu.